Một nghiên cứu điều tra những người có nguy cơ tử vong cao nhất sau cơn đau tim. Một dấu ấn sinh học có thể giúp các nhà cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe cá nhân hóa dự đoán của họ.
Hội chứng mạch vành cấp tính (ACS) mô tả một loạt các tình trạng tim mạch được đặc trưng bởi sự giảm lưu lượng máu đến tim đột ngột và nguy hiểm.
ACS cũng có thể, trong một số trường hợp, dẫn đến một cơn đau tim lớn.
Cho đến nay, các yếu tố nguy cơ được biết đến đối với ACS bao gồm tuổi tác (thường gặp nhất ở những người trên 65 tuổi), giới tính (với nam giới có nguy cơ cao hơn nữ giới) và tiền sử bệnh (với bệnh tiểu đường, tăng huyết áp và cholesterol xấu là nguyên nhân chính).
Gần đây, các nhà nghiên cứu từ Đại học Sheffield ở Vương quốc Anh đã bắt đầu điều tra xem liệu có bất kỳ dấu ấn sinh học nào có thể dự đoán nguy cơ ACS cao ở những người đã trải qua cơn đau tim hay không.
Trưởng nhóm nghiên cứu, Giáo sư Robert Storey – từ Khoa Nhiễm, Miễn dịch và Bệnh tim mạch của trường đại học – và nhóm của ông nhận thấy rằng huyết tương có thể cung cấp cho các học viên manh mối mà họ cần để phát hiện khả năng mắc bệnh tim mạch.
Phát hiện của họ đã được công bố trên Tạp chí Tim mạch Châu Âu.
Máu đông gắn liền với nguy cơ cao hơn
Giáo sư Storey và các đồng nghiệp đã phân tích dữ liệu từ 4.354 người tham gia thử nghiệm ức chế PLATelet và kết quả bệnh nhân để “đánh giá sự an toàn và hiệu quả của điều trị” với hai loại thuốc làm loãng máu khác nhau được sử dụng để ngăn ngừa sự hình thành cục máu đông.
Tất cả những người tham gia đều có dạng ACS và phải nhập viện vì đau tim.
Với mục đích của nghiên cứu mới, các mẫu máu được thu thập từ những người tham gia này khi họ xuất viện. Tiếp theo, các nhà khoa học đã phân tích huyết tương – hay chất lỏng màu vàng giữ các tế bào máu lại với nhau – để xem liệu nó có thể cung cấp bất kỳ dấu hiệu nào về những gì có thể khiến mọi người có nguy cơ mắc ACS không.
Các nhà nghiên cứu tập trung vào hai dấu ấn sinh học:
- “Độ đục tối đa” hoặc mật độ tối đa của máu đông, được gọi là “cục máu đông” sau protein huyết tương giữ nó lại với nhau
- “thời gian ly giải cục máu đông” hoặc thời gian cần thiết để một cục máu đông tan
“Chúng tôi […] nhằm mục đích nghiên cứu các đặc tính cục máu đông fibrin trong các mẫu huyết tương thu thập từ bệnh nhân ACS khi xuất viện và khám phá mối quan hệ giữa các đặc điểm đó và kết quả lâm sàng tiếp theo”, các nhà nghiên cứu viết.
Đầu tiên, Giáo sư Storey và nhóm điều chỉnh các yếu tố rủi ro ACS đã biết, để đảm bảo tính vững chắc của kết quả nghiên cứu.
Sau những điều chỉnh này, các nhà nghiên cứu kết luận rằng những người tham gia mất nhiều thời gian nhất để làm tan cục máu đông có nguy cơ bị đau tim cao hơn 40% hoặc tử vong sớm do bệnh tim mạch.
“Chúng tôi đã có những bước tiến lớn trong hai thập kỷ qua trong việc cải thiện tiên lượng sau các cơn đau tim nhưng vẫn còn nhiều chỗ để cải thiện hơn nữa”, giáo sư Storey lưu ý.
Ông tiếp tục, “Phát hiện của chúng tôi cung cấp manh mối thú vị về lý do tại sao một số bệnh nhân có nguy cơ tử vong cao hơn sau cơn đau tim và làm thế nào chúng ta có thể giải quyết vấn đề này bằng các phương pháp điều trị mới trong tương lai.”
Nhóm nghiên cứu giải thích rằng những phát hiện hiện tại chỉ ra rằng các loại thuốc chống đông máu sẽ làm máu đông tan nhanh hơn ở những người có thời gian ly giải cục máu đông dài tự nhiên có thể cải thiện kết quả sức khỏe cho những người đã sống chung với ACS.
“Bây giờ chúng tôi cần phải tiếp tục tìm hiểu các khả năng điều trị phù hợp với nguy cơ của một cá nhân sau cơn đau tim và kiểm tra xem các loại thuốc cải thiện thời gian ly giải cục máu đông có thể làm giảm nguy cơ này hay không.” – Giáo sư Robert Storey